Trần Mỹ Duyệt
Maria Magdalena (Maria Mađalêna hay còn được gọi là Maria Mai-đệ-Liên) là một trong các nữ môn đệ của Chúa Giêsu. Bà được Ngài chữa lành và trừ cho bảy quỷ (x. Luca 8:2; Marcô 16:9). Bà trung thành đi theo Chúa kể cả đứng dưới chân thập giá trong khi các Tông Đồ bỏ trốn hết, ngoại trừ một mình Gioan ở lại. Tên bà được nhắc đến trong cả bốn Phúc Âm. Chính vì bà đã được Phúc Âm nhắc lại nhiều lần trong những hoàn cảnh khác nhau nên hình ảnh thật của bà là ai đã trở thành câu hỏi đối với nhiều học giả Thánh Kinh, cũng như những người muốn biết về bà.
MARIA MAGDALENA LÀ AI TRONG PHÚC ÂM?
Maria là một phụ nữ Do Thái từ một làng chài ở tỉnh Magdala trên bờ tây của Biển Galilee. Tên bà được nhắc đến 12 lần trong các Phúc Âm, hơn tất cả các Tông Đồ. Thánh Kinh đã ghi lại việc Chúa Giêsu chữa lành cho bà: “Sau đó, Đức Giêsu rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Maria gọi là Maria Magdalena, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ.”(Lc 8:1-2; Mc 16:9)
Maria Magdalena là một trong số ít nữ môn đệ nổi bật trong cuộc đời và hành trình rao giảng Phúc Âm của Chúa Giêsu. Bà chiếm một vị trí quan trọng trong Giáo Hội sơ khai, và được biết đến như một người nhiệt thành theo Chúa Giêsu Kitô. Bà đã hiện diện khi Ngài bị đóng đinh và trong giây phút an táng Ngài. Bà cũng là chứng nhân đầu tiên về cuộc phục sinh của Ngài. Đức tin mạnh mẽ và sự trung thành của bà đối với Ngài không lay chuyển.
Mối tương quan giữa bà với Chúa Giêsu rất rõ ràng. Việc Ngài chữa lành cho bà khơi nguồn việc tái tận hiến cuộc đời bà để theo Ngài. Bà ao ước, khao khát được gần gũi Đức Kitô và phục vụ Ngài bất cứ cách nào bà có thể. Điều này đã trở thành lẽ sống của đời bà. Bà biết bà sẽ không có một cuộc sống mới nếu không vì Ngài. Những gì bà sống thường ngày là đức tin mà chúng ta tất cả phải cố gắng và bắt chước. Nhưng điều gì đặc biệt ở Maria Magdalena mà Chúa Giêsu đã chọn bà?
Qua hình ảnh được ghi lại trong Phúc Âm, có thể nói Maria Magdalena là người đã chịu đau đớn nhiều về thể lý và tâm lý. Maurice Casey, trong tác phẩm Jesus of Nazareth cho rằng Maria Magdalena phải đau khổ, khủng hoảng tâm lý và tình cảm một cách trầm trọng do bị quỷ nhập. Bà đã đánh mất sự kiểm soát và căn tính, cùng với tất cả mọi sự mà bà đã biết về đời sống quý giá của bà. Sắc đẹp và giầu sang đã không ngăn cản bà khỏi những cơn đau đớn như hấp hối đã bám sát và tấn công bà từng ngày, từng giây phút: “Số bẩy là con số huyền nhiệm chứng tỏ ‘sự hoàn hảo’, ngụy ý rằng khi các thần dữ chiếm đoạt Maria, thì sự đau đớn là cực kỳ lớn lao.” [1]
Khi Chúa Giêsu nhìn Maria Magdalena trong tình trạng vô vọng của bà, thì chỉ duy mình Ngài biết bà là ai và tình trạng bế tắc của bà như thế nào. Không phải Ngài chỉ nhận ra bà, nhưng Ngài đã truyền cho ma quỷ ra khỏi bà. Tình thương của Ngài đã giúp bà vượt qua những gì bà đang gánh chịu, để hướng toàn bộ đời sống của bà đến việc phục vụ Ngài. Nó phát xuất do lòng yêu mến và biết ơn của bà. Thực sự bà là ai, và những gì đã xảy ra cho bà sau khi Đức Kitô đã sống lại? Năm câu trả lời sau đây về câu chuyện và cuộc đời của Maria Magdalena được tìm thấy trong Phúc Âm.
Xức dầu thơm chân Chúa Giêsu
Bà là một trong số nhiều Maria đã theo Chúa Giêsu, vì Maria là tên gọi khá phổ thông đối với phụ nữ Do Thái thời bấy giờ. Chính vì thế, khi muốn biết về bà, chúng ta cần phải xác định Maria nào.
Trong Phúc Âm của mình, Luca đã ghi: “Bỗng một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pharisiêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm.”(7:37) Nhưng Maria Magdalena lại chưa bao giờ được xác nhận là người đã xức dầu thơm trên chân Chúa. Một số sử gia cho rằng có thể người đã xức dầu thơm trên chân Chúa Giêsu là Maria Bethany, chị em của Martha và Lazarô.
Tự điển Kinh Thánh giải thích, “Maria Magdalena đã trở thành một hình ảnh của giới tội nhân xám hối, nhưng không có thẩm quyền cho việc xác định bà với ‘tội nhân’ người đã xức dầu thơm chân Chúa Giêsu trong Luca 7:36-50, hoặc có bất cứ thẩm quyền nào cho việc giả định rằng Maria Magdalena là chị của Lazarô.” Do đó, không có nguồn nào trong Phúc Âm xác định rằng bà liên quan đến hành vi điếm đàng hoặc một quá khứ tội lỗi.[2]
Dưới chân thánh giá
Là người xuất hiện ở giây phút đau thương nhất của cuộc đời Chúa Giêsu. Maria Magdalena sau khi theo Ngài tới Núi Sọ, bà còn đứng dưới chân thập giá chứng kiến cuộc khổ hình của Ngài: “Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có mẹ Người, chị của mẹ Người, bà Maria vợ ông Cleophas, cùng với bà Maria Magdalena.” (Gioan 19:25) Bà đã ở đó khi Giuse thành Arimathea hạ xác Ngài và táng trong mồ, rồi lấp cửa mồ bằng một tảng đá. Và ngày thứ nhất trong tuần, bà đã trở lại. Khi nhìn thấy tảng đá cửa mồ được đẩy qua một bên, bà đã vội vàng trở về báo cho Phêrô và Gioan. Họ cũng đã vội vã chạy đến ngôi mộ và không thấy xác Chúa Giêsu trong đó.
Gặp gỡ Chúa sống lại
Khi hai Tông Đồ về nhà, riêng bà, Maria Magdalena vẫn nán lại và khóc. Bỗng bà thấy hai thiên thần và hỏi các vị nếu biết xác Chúa Giêsu được giấu ở đâu. Rồi bà gặp chính Chúa Giêsu, nhưng lại không nhìn ra Ngài. Bà nghĩ rằng Ngài là người làm vườn, và khi Ngài hỏi tại sao bà khóc, và bà đang tìm ai, bà trả lời: “Thưa ông, nếu ông đã lấy xác Ngài đi, xin chỉ cho tôi biết ông để Ngài ở đâu để tôi đến và nhận lại.” Nhưng Chúa Giêsu đã gọi bà “Maria” – và bà lập tức nhận ra Ngài, bà đã thưa với Ngài “Rabbuni!” có nghĩa là “Thầy” trong tiếng Do Thái. Rồi Ngài đã bảo bà: “Đừng đụng đến Ta vì Ta chưa về cùng Cha, nhưng hãy đi tìm và nói với các anh em Ta, Ta về cùng Cha Ta cũng là Cha của các con, cùng Chúa Ta cũng là Thiên Chúa của các con.” Vì thế, Maria Magdalena đi gặp các Tông Đồ và kể lại cho họ những gì bà đã nghe và đã thấy Chúa. (x. Gioan chương 20).
Công bố Chúa Giêsu phục sinh
Maria Magdalena là phụ nữ trong số những người đã theo Chúa Giêsu công bố Ngài đã sống lại. Bà là người đầu tiên loan báo tin mừng Phục Sinh. Bà cũng chứng tỏ rằng bà là người yêu Chúa nhất khi đứng dưới chân thập giá trên đồi Calvariô cùng với Đức Maria, Mẹ của Chúa, và tông đồ Gioan. Bà không chối và trốn chạy vì sợ hãi như các tông đồ khác đã làm, nhưng ở lại với Ngài trong mọi phút giây, cho đến tận ngôi mộ.
Theo phong tục Do Thái lúc bấy giờ, phụ nữ không mang những vai trò quan trọng có tính cách xã hội, trường hợp Maria Magdalena thì khác. Chứng cứ của bà về Chúa Phục Sinh đã trở nên căn bản cho niềm tin Phục Sinh Kitô Giáo. Nhờ bà mà Phêrô và Gioan đã đến mộ, và theo Gioan thì ông “đã thấy và đã tin.” (Gioan 20:8)
Biết Chúa Giêsu an táng ở đâu?
Trình thuật của bốn Phúc Âm ghi lại sự hiện diện của mấy phụ nữ dưới chân thập giá. Marcô ghi nhận Maria Magdalena, Maria, mẹ của Giacôbê, và Salome (15:40). Mátthêu thì ghi Maria Magdalena, Maria, mẹ của Giacôbê và Giuse, và mẹ của các con ông Zebedee (27:55-56). Luca lưu ý đến một nhóm, nhưng không nêu rõ. Còn theo Gioan, có Maria, mẹ Chúa Giêsu, và chị mẹ Ngài, Maria vợ Cleophas, và Maria Magdalena (19:25-27).
Riêng bà, Maria Magdalena đã ở đó cho đến khi xác Chúa Giêsu được hạ xuống khỏi thánh giá và đi theo chứng kiến Giuse thành Arimathea táng xác Chúa Giêsu: “Maria Magdalena và Maria mẹ của ông Giuse đã nhìn thấy ngài được đặt ở đâu.”(Marcô 15:47)
NHỮNG HIỂU LẦM VỀ LÝ LỊCH CỦA BÀ
Qua những gì được trình bày trong Phúc Âm cho thấy Maria Magdalena không phải là một phụ nữ có quá khứ điếm đàng. Theo giải thích Thánh Kinh, lối diễn tả ‘bảy quỷ’ có thể được chỉ về một bệnh lý hiểm nghèo hoặc khuyết điểm luân lý đã ảnh hưởng phụ nữ này mà Chúa Giêsu đã chữa cho khỏi. Nhưng tại sao cho đến nay, truyền thống vẫn cho rằng Maria Magdalena là một gái điếm? Điều này là do trong chương 7 của Luca có viết một câu tổng quát: “được biết là người tội lỗi nhất trong thành.” Người đã rửa chân Chúa Giêsu bằng nước mắt, lau khô bằng tóc và xức dầu thơm trên chân Ngài khi được mời tới nhà một người Pharisiêu danh giá. Tuy vậy, không có một chỗ nào nêu rõ Maria Magdalena là người tội lỗi vô danh này. Ngoài ra, theo Cardinal Ravasi ở tường thuật của Thánh Sử Gioan: “Cô Maria lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và quý giá xức chân Đức Giêsu, rồi lấy tóc mà lau. Cả nhà sực mùi thơm.” (12:3) Việc này được cho là do Maria Bethany, em của Martha và chị Lazarô. Thêm vào đó, dựa theo một số truyền thống đã có sự nhầm lẫn giữa Maria Bethany với một gái điếm của Galilee. Và điều này lại nêu lên một sự hiểu lầm hơn nữa.[3]
Không biết lý do gì các Giáo Phụ đã gom cả ba bốn người phụ nữ đó lại thành một người. Hậu quả là chúng ta có khái niệm về Maria Magdalena là gái điếm được ơn sám hối. Thánh phó tế Ephraim người Syria (thế kỷ IV), Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô Cả (thế kỷ VI), nhiều họa sỹ, văn sỹ và các nhà chú giải Kinh Thánh cũng theo xu hướng đó. Từ thế kỷ XII, Viện Phụ Hugh ở Semur (qua đời năm 1109), Peter Abelard (qua đời năm 1142), và Geoffrey ở Vendome (qua đời năm 1132) đều nhắc tới Maria Magdalena là người tội lỗi.
Nhưng trong cả 4 Phúc Âm, không có lần nào các tác giả Tin Mừng nói bà là gái điếm hoặc tội nhân tội lỗi công khai. Tóm lại, một nhận xét chung cho rằng: “Không có bằng chứng Thánh Kinh nào chứng tỏ Maria Magdalena là gái điếm.” Các học giả và các nhà Kinh Thánh đương đại đã bắt đầu phục hồi “danh tiếng” cho bà và xem bà là một trong những nhân vật quan trọng của Kitô Giáo thời sơ khai. Ngày 03/06/2016, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nâng lễ nhớ thánh nữ lên bậc lễ kính, tương đương với lễ kính các Tông Đồ.
Thánh Maria Magdalene là bổn mạng của:
-Những người cải đạo (converts).
-Những tội nhân xám hối (penitent sinners).
-Những người bị chế nhạo vì lòng thành kính (People ridiculed for their piety).
-Những người làm nước hoa.
-Những thợ làm tóc.
-Những người làm găng tay.
-Những dược sỹ.
-Những phụ nữ.
-Những phụ nữ mãi dâm trở lại, và
-Những người thuộc da.
Lễ kính: 22 tháng 7
Ngày nay trên trời, thánh nữ Maria Magdalena có lẽ đang mỉm cười, vì suốt dòng lịch sử bà là người mang nhiều huyền thoại nhất.[4]
TÔNG ĐỒ CỦA CÁC TÔNG ĐỒ
“Tông Đồ của các Tông Đồ.” Đây là danh hiệu thánh Thomas Aquinas đã dùng để gọi Maria Magdalena. [5]
“Sau đó, Đức Giêsu rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Maria gọi là Maria Magdalena, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gioanna, vợ ông Khuda quản lý của vua Hêrôđê, bà Susanna và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ.” (Luca 8:1-3)
Maria Magdalena là người đầu tiên kể lại đầy đủ câu chuyện Thánh Kinh. Khi các thiên thần bảo bà: “Hãy đi nói với những môn đệ của Thầy và Phêrô, ‘Người sẽ đi trước anh em đến Galilee. Ở đó, anh em sẽ gặp Người, như Người đã nói với anh em.’” (Marcô 16:7) Bà trở thành người thứ nhất cảm nhận được tiếng gọi, và kéo Đức Kitô vào đời sống của mình. Phụ nữ không được dùng để làm nhân chứng vào thời đại đó, và lời của họ không để lại giá trị gì trong những biến cố lịch sử được ghi lại. Vậy tại sao Kitô Giáo lại đặt những phụ nữ này ở trung tâm Phúc Âm – trong một xã hội ở đó phụ nữ không được coi như ngang hàng nam giới?
Các môn đệ và Tông Đồ đã sống đời sống rao giảng Tin Mừng. Đa số đã trở thành những vị tử đạo trong việc thiết lập Kitô Giáo tiên khởi. Vậy Maria Magdalena thì sao? Chứng nhân một cách mạnh mẽ của bà về Chúa Giêsu Kitô không nghi ngờ gì được đặt vào vị trí để tăng thêm đức tin cho những người khác. Theo Christianity.com, bà khoảng 46 - 49 tuổi khi Chúa Giêsu qua đời. Nhưng Britannica xác định rằng bà sống vào khoảng 25 B.C. - A.D. 75, do đó, bà 54 - 59 tuổi khi Ngài qua đời. Một số truyền thuyết kể rằng sau khi Chúa Giêsu về trời, bà đã cùng với Đức Maria, và Tông Đồ Gioan đến Ephesô. Một số khác lại nói rằng bà truyền giáo ở đông nam nước Pháp. Bà sống 30 năm cuối đời trong một cái hang ở Alpine, nhưng không có tài liệu nào nói bà qua đời năm nào và được bao nhiêu tuổi.
Vẫn biết truyền thuyết là những điều không chắc chắn, nhưng người phụ nữ Maria Magdalena đây có một vị trí đặc biệt trong câu truyện về Kitô Giáo và được đặt ở đó do Thiên Chúa. Qua bà, chúng ta cũng biết được phần nào Chúa Giêsu là ai. Ngài tìm được bà trong nơi tăm tối nhất của bà, và đã chữa lành bà một cách lạ lùng như thế nào. Bà là một trong số các bạn hữu và người trung thành theo Ngài. Những hành động của bà nói lên một cách mạnh mẽ nhất, nâng đỡ sứ vụ của Chúa Giêsu, với tất cả những gì bà có thể dù phải chấp nhận hy sinh. Bà đã đem cuộc đời bà theo Ngài và lo lắng cho Ngài. Giây phút đáng ghi nhớ nhất của bà không phải là Đấng Cứu Thế của bà đã đứng trước mặt bà bên ngôi một trống, nhưng là tiếng gọi thân yêu của Ngài: “Maria!” Tiếng gọi âu yếm của Đức Kitô phục sinh và là Thầy của bà. (Gioan 20:14-17) [6]
________
Tài liệu tham khảo:
1.Dr. Herbert Lockyer. All the Women of the Bible
2. https://www.biblestudytools.com/bible-study/topical-studies/who-was-mary-magdalene.html
3. https://www.vaticannews.va/en/saints/07/22/st--mary-magdalene--disciple-of-the-lord-.html
4. Con Chiên Nhỏ. Fb Loc Teresa, 03/0/2024
5. https://www.vaticannews.va/en/saints/07/22/st--mary-magdalene--disciple-of-the-lord-.html
6. https://www.biblestudytools.com/bible-study/topical-studies/who-was-mary-magdalene.html
-Sầu Đông hôm qua đem sổ điểm về em la cho nó một mẻ. -Nó phạm lỗi gì mà em la nó? -Nó bị một con B. -Em không biết là thang điểm, B đứng hạng nhì không? A,B,C. Làm gì phải la nó, vả lại chỉ có một con B thôi mà. -Em muốn nó được A tất cả. Em muốn nó phải vào được trường giỏi, ra trường thủ khoa và có tương lai. Em một mình nuôi nó ăn học, em có quyền hy vọng điều đó. Câu chuyện giữa tôi và cô em trên chắc cũng là giấc mơ của nhiều phụ huynh.
-Sầu Đông hôm qua đem sổ điểm về em la cho nó một mẻ. -Nó phạm lỗi gì mà em la nó? -Nó bị một con B. -Em không biết là thang điểm, B đứng hạng nhì không? A,B,C. Làm gì phải la nó, vả lại chỉ có một con B thôi mà. -Em muốn nó được A tất cả. Em muốn nó phải vào được trường giỏi, ra trường thủ khoa và có tương lai. Em một mình nuôi nó ăn học, em có quyền hy vọng điều đó. Câu chuyện giữa tôi và cô em trên chắc cũng là giấc mơ của nhiều phụ huynh.
Mấy người bạn của tôi nay người này, mai người khác cứ lần lượt rủ nhau từ giã cõi đời. Những người còn lại thì hồi hộp, thấp thỏm: “Bao giờ đến phiên mình?” Vẫn biết rằng có sinh thì phải có tử, nhưng chuyện gì xảy ra trước và sau đó vẫn là điều mà nhiều người thường hay băn khoăn, lo lắng.
Trải qua bao thế kỷ, Giáo Hội Công Giáo đã dành tháng Năm để đặc biệt tôn kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Không phải chỉ là một ngày, mà toàn tháng Năm. Như mùa Đông qua, tháng Năm được coi như khởi đầu một sức sống mới của vạn vật. Truyền thống dành riêng tháng Năm tôn kính Đức Mẹ bắt nguồn từ việc người Rôma tôn kính nữ thần mùa xuân. Các Kitô hữu ban đầu đã tôn giáo hóa tập tục này, và tổ chức những cuộc rước kiệu hoa và cầu nguyện cho mùa màng phong phú.
Chúa Giêsu, qua trích đoạn Tin Mừng của Thánh Gioan (15:1-8) đã diễn tả về mối tương quan giữa Ngài và các môn đệ qua hình ảnh quen thuộc mà mọi người Do Thái đều biết, đó là hình ảnh cây nho. Ngài là cây nho và chúng ta là cành.
Cây nho mọc khắp nơi tại Palestine. Dù trồng ở đâu, việc chuẩn bị đất trồng vẫn là việc chính yếu.
Câu truyện truyền tin của Đức Maria đã được Thánh sử Luca (1:26-38) ghi lại một cách chi tiết và đầy đủ. Trong biến cố này Đức Maria đã trở nên một gương mẫu đức tin cho chúng ta. Người cho chúng ta thấy rằng đức tin không chỉ là hành động chấp nhận, nhưng còn là sự tín thác, trung tín, vâng lời, và phục tùng nữa.
“Đừng sợ, Ta là nguyên thủy và cùng đích, và là Đấng hằng sống. Ta đã chết, và nay ta đang sống tới muôn đời” (Khải Huyền 1:17-18).
Chúng ta nghe những lời yên ủi này trong Bài Đọc Thứ Hai trích từ Sách Khải Huyền. Những lời mời gọi chúng ta hướng tầm nhìn vào Đức Kitô, để cảm nghiệm sự hiện diện an ủi của Ngài.
Thứ Sáu Tuần Thánh. Đồi Golgotha. Cây thập tự. Không gian, thời gian và vật dụng ấy nhắc tôi về cái chết đau thương, đầy nhục nhã của Đức Giêsu Cứu Thế. Ngài bị đóng đanh và chết trên thập giá. Nhưng cái chết của Người thực sự đem lại cho tôi điều gì? Tại sao tôi phải xót xa và thương cảm? Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Rôma (6:3-11) đã trả lời tôi về những gì mà tôi đang suy tư, khi liên kết cái chết của Chúa Giêsu với cái chết của người Kitô hữu qua Bí Tích Thánh Tẩy:
Mỗi lần Chúa Nhật Lễ Lá mở đầu Tuần Thánh, Giáo Hội lại cho đọc những trình thuật về cuộc khải hoàn của Chúa Giêsu vào Thành Thánh Giêrusalem. Gọi là cuộc khải hoàn, nhưng đúng hơn, đây là hình ảnh của việc chiếm ngự tâm linh mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện khi ngài chịu chết để cứu chuộc nhân loại. Một hình ảnh của cuộc chiến thắng tinh thần.
“Khi đến gần làng Bethphage, bên triền núi gọi là Ôliu. Người sai hai môn đệ và bảo: “Các anh đi vào làng trước mặt kia. Khi vào sẽ thấy một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh tháo dây ra và dắt nó đi. Và nếu có ai hỏi: “Tại sao các anh tháo lừa người ta ra, thì cứ nói: “Chúa cần đến nó!”
Thánh Giuse là một vị thánh cao cả và vỹ đại nhất trong Giáo Hội Công Giáo. Hình ảnh của ngài luôn gắn liền với hình ảnh Đức Trinh Nữ Maria và Chúa Giêsu, Đấng cứu chuộc nhân loại. Tuy nhiên, sự cao cả và vỹ đại của Ngài không được những tài liệu, sách báo do con người ghi chép, nhưng tiềm ẩn trong Thánh Kinh Tân và Cựu Ước.
Chúa Giêsu sau khi chịu Phép Rửa trên sông Gordan, Ngài được Thánh Thần đưa vào sa mạc, ở đó 40 ngày ăn chay và chịu Satan cám dỗ. Để tìm hiểu những cám dỗ ấy của Ngài, cũng như chúng có ý nghĩa gì trong đời sống tâm linh của chúng ta, đặc biệt trong Mùa Chay Thánh này. Sau đây là bài viết của cha Thomas G. Weinandy, OFM, Cap., một nhà thần học, một nhà trước tác và cựu thành viên trong Ủy Ban Thần Học Thế Giới của Vatican,
Chúa Giêsu đã đem ba môn đệ là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cao, ở đó Chúa biến hình trước mặt các ông (x. Marcô 9:2-10).
Thánh sử Marcô đã tả lại quang cảnh này bằng những từ ngữ rất gợi hình, truyền cảm: “Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy.” (3) Có Maisen và Êlia cùng xuất hiện đàm đạo với Chúa. Điều này khiến các ông vui sướng, và phản ứng lúc đó của Phêrô là muốn ở lại luôn trên núi với Thầy:
Anh chị em thân mến!
Khi Thiên Chúa của chúng ta mặc khải Ngài chính Ngài, thông điệp của Ngài luôn luôn nói đến tự do: “Ta là Chúa, Thiên Chúa các ngươi, người đã đem các ngươi ra khỏi đất Ai Cập, khỏi nhà nô lệ” (Ex 20:2). Đây là những lời đầu tiên trong Mười Giới Luật mà Ngài đã ban cho Maisen trên núi Sinai.
Vợ chồng xưng hô với nhau bằng Chồng ơi – Vợ ơi, Bố ơi – Mẹ ơi, Anh ơi – Em ơi, hoặc Mình ơi thì đến già vẫn yêu thương mặn nồng, kẻ thứ 3 khó có chỗ chen chân vào. Những từ ngữ trên là cách gọi vừa thể hiện chủ quyền sở hữu, trách nhiệm, và tình cảm mà cả hai dành cho nhau.
Thống kê cho thấy, ngày nay rất nhiều phụ nữ chọn sống độc thân, không lấy chồng và sinh con. Lý do vì họ muốn được tự do theo đuổi những giấc mộng riêng tư, vì không muốn chịu ràng buộc với trách nhiệm làm vợ và làm mẹ. Nhưng tự thâm tâm và bản năng, người phụ nữ luôn muốn có một người chồng và được làm mẹ.
Qua hai câu Thánh Kinh ngắn gọn, Thánh Ký Marcô đã vẽ ra hai khuôn mặt trái ngược nhau về Chúa Giêsu: “Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí.” (3:20-21)
Ba nhà chiêm tinh hoặc đạo sỹ (magi). Các ngài là Caspar hay Caspas, Jaspas, Gathaspa. Melchior hay Melichior. Và Balthasar hay Balthazar, Balthassar hoặc Bithisarea. Các ngài đã lận lội đường xa đến thờ lạy Đức Kitô vừa giáng sinh. “Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2:2).
“Ngài đã trở nên một trẻ thơ, để Ngôi Lời có thể được chúng ta nắm bắt. Bằng cách này, Thiên Chúa dạy chúng ta yêu thương những người bé mọn… Ngài dạy chúng ta yêu những ai yếu đuối.”
“Ngài đã trở nên một trẻ thơ, để Ngôi Lời có thể được chúng ta nắm bắt. Bằng cách này, Thiên Chúa dạy chúng ta yêu thương những người bé mọn… Ngài dạy chúng ta yêu những ai yếu đuối.” Trong bài giảng dưới đây, Đức Thánh Cha đã lưu tâm đến những trẻ em bị lạm dụng, xâm phạm, bao gồm những thai nhi bị giết hại,
Thấm thoát mà đã 2023 lần kỷ niệm ngày Giêsu giáng trần. Mỗi năm mỗi khác, và mỗi nơi cũng mỗi khác. Có những năm trời mưa, giông bão, tuyết rơi. Có những năm thanh bình, và cũng có những năm chiến tranh. Riêng tại quê hương Việt Nam tuy hết chiến tranh nhưng lại chưa có thanh bình!
Advent xuất phát từ tiếng Latin là adventus có nghĩa là đang đến, đang tới gần. Theo lịch phụng vụ, đây là thời gian mong chờ và chuẩn bị đón mừng Sinh Nhật của Đức Giêsu Kitô trong đêm Giáng Sinh, và ở một nghĩa khác, nhắc nhở chúng ta hướng tới ngày trở lại lần thứ hai của Ngài. Mùa Vọng kéo dài qua 4 tuần lễ với 4 Chúa Nhật Mùa Vọng.
Hôm 8 tháng 9 năm 2023 lễ Sinh Nhật Đức Mẹ, trong lúc nguyện ngắm buổi sáng trước Thánh Lễ, tôi đã dùng cuốn sách Vinh Quang Mẹ Maria (The GLORIES of MARY) của Thánh Alphonsus De Liguori làm tư tưởng cho phần suy niệm. Và tôi đã cùng ngài suy niệm câu: “Đến sau cõi đời này, xin Mẹ cho chúng con được thấy Chúa Giêsu quả phúc của lòng Mẹ”
Theo truyền thống đã có từ những thế kỷ đầu, Giáo Hội Công Giáo tôn kính 7 Tổng Thần có tên là Michael, Gabriel, Raphael, Uriel, Camael, Jophiel, and Zadkiel. Ba vị đầu là Michael, Gabriel và Raphael
Sau khi đọc bài “KHI THA THỨ LÀ TỰ THA CHÍNH MÌNH”, một độc giả đã email phản ảnh ý kiến của mình. Ông viết: “Bài học này tôi đã học mãi mà chưa thuộc. Tha đã khó mà quên những điều người khác làm cho mình phải khổ, phải thiệt thòi, hoặc phải mất danh dự thì càng khó hơn”.
“Tha thứ là tự tha cho chính mình”. Tư tưởng này xem ra như không hợp với suy nghĩ và lối sống của nhiều người. Làm gì có chuyện tha cho kẻ cướp chồng mình, kẻ phản bội mình vì một người đàn bà khác, kẻ cướp của, giết hại cha mẹ, anh chị em mình, hoặc kẻ tham ô khiến mình phải mất đất, mất nhà, mất việc làm để rồi đến nỗi táng gia bại sản, thân bại danh liệt, gia đình đổ vỡ, con cái nheo nhóc, lâm cảnh tù tội…
Hôn nhân là một đời sống hạnh phúc. Nó chính là nền tảng của gia đình, của xã hội, và cả tôn giáo nữa. Bởi đó hôn nhân có rất nhiều kẻ thù. Thoạt nhìn vào những đổ vỡ của hôn nhân, người ta thường cho rằng kẻ thù của nó là những tệ nạn của xã hội: rượu chè, nghiện hút, cờ bạc, và lăng nhăng trai gái. Một số nguyên nhân khác bao gồm: vợ chồng ghen tương, lười biếng, thiếu trách nhiệm, nếp sống gia trưởng, và bạo hành trong gia đình.
Hôm nay (8 tháng 9 năm 2023) lễ Sinh Nhật Đức Mẹ, trong lúc nguyện ngắm buổi sáng trước Thánh Lễ, tôi đã dùng cuốn sách The GLORIES of MARY (Vinh Quang Mẹ Maria) của Thánh Alphonsus De Liguori làm tư tưởng cho phần suy niệm. Trong phần tài liệu, tôi đã đọc bài viết của thánh nhân, và cùng ngài suy niệm câu: “Et Jesum benedictum fructum ventris tui nobis post hoc exilium obstande”
Chư huynh đáng kính trong hàng Giám Mục và Linh Mục
Anh chị em thân mến, Trong bài ca Ngợi Khen (Magnificat), một thi ca tuyệt vời của Đức Mẹ mà chúng ta vừa nghe trong Tin Mừng, chúng ta tìm thấy một số từ ngữ gây kinh ngạc. Maria nói: “Từ nay muôn thế hệ sẽ gọi tôi diễm phúc”.
Những hình ảnh cổ nhất diễn tả việc Chúa Giêsu biến hình có từ thế kỷ thứ Sáu được tìm thấy trong tu viện St. Catharine ở Siani, đã diễn tả những gì mà thánh ký Matthêu đã ghi lại trên núi. Theo truyền thống thì Chúa Giêsu đã biến hình trên núi Tabor. Đây là ngọn núi cao 575m ở cuối hướng đông của Thung Lũng Jezreel, cách Biển Galilee 18 Km.
Qua Tiên Tri Isaia, Thiên Chúa được diễn tả như một Thiên Chúa đáng yêu, giầu lòng rộng rãi, nhân ái và bao dung. Ngài luôn mời gọi mỗi người chúng ta đến với Ngài. Lời “mời” của Ngài trường hợp này mang hai nghĩa: -Sự thu hút của lời mời. Trong Isaia chúng ta tìm thấy ý nghĩa của sự thu hút ấy qua những lời: Khát nước, đói, đồ bổ, món ăn mỹ vị, bánh, sữa và rượu…
Nếu có dịp đọc tác phẩm “The Surrendered Wife” (Người Vợ Về Nguồn) của Laura Doyle [1], thì cũng giống như phần lớn các độc giả, bạn sẽ bị thu hút vào một cuộc tranh chấp nội tâm: tán thành hoặc phản đối nội dung và triết lý được tác giả trình bày trong đó.
Trong khi cao trào về nam nữ bình quyền, về nữ quyền đang được đề cao mà có ai đó nói rằng đã đến lúc chị em phụ nữ cần dừng lại để xem xét lại những gì mình đã làm,
Trong thế giới tự do hiện nay, con người xem như muốn giành lấy quyền làm chủ đời mình. Họ muốn biết lành, biết dữ. Với trào lưu tư tưởng không ngừng phản ảnh đến suy nghĩ và hành động. Thêm vào đó, được tiếp tay bởi truyền thông, sự lạm dụng và khuynh loát của giới chính trị, các chủ thuyết tự do của xã hội, và sự suy sụp về luân lý, đạo đức, những phong trào đồng tính, hôn nhân đồng tính và chuyển giới ngày một trở nên thách đố hệ thống luân lý, luật pháp, trật tự xã hội, đạo đức xã hội và cả Thiên Chúa nữa.
Phải bắt đầu dạy đứa trẻ 20 năm trước khi nó chào đời”. Câu nói này được cho là của Napoleon, nhưng quan niệm về tâm lý giáo dục thì cho rằng đứa trẻ không chỉ “sẵn sàng để học”, mà nó đã thực sự học ngay vừa khi chào đời.
Thời gian gần đây thỉnh thoảng tôi vẫn nhận được những cuộc gọi nhờ giúp đỡ hoặc hỏi ý kiến qua điện thoại. Phần lớn những thắc mắc đều quy về hai điểm chính: Hôn nhân và giáo dục con cái.
Tâm lý nhàm chán cho chúng ta lý do để “xét lại”. Theo tâm lý này, người ta có trăm ngàn lý do để đến với nhau, và cũng có trăm ngàn lý do để xa nhau. Một khi tình yêu đã ra nhạt nhẽo, hững hờ, người ta sẽ cảm thấy hối tiếc, thấy phàn nàn, và muốn “thay đổi”. Và hậu quả là đem đến những cám dỗ về ngoại tình, nhất là những lúc “cơm không lành, canh không ngọt”. Như Nguyễn Ánh 9, Hồ Dzếnh cũng có một cái nhìn bi quan về một tình yêu chung thủy, hay đúng hơn một sự mơ mộng về cái thuở còn yêu nhau, theo đuổi và tán tỉnh nhau:
“Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò”. Câu nói này hầu như ai cũng đã nghe và đã biết về ý nghĩa của nó. Tuổi trẻ mà không chút phá phách, nghịch ngợm không phải là tuổi trẻ. Nhưng lưu manh, côn đồ, du đãng, và bắt nạt lẫn nhau thì đó là những hành động không thể chấp nhận. Hậu quả của nó còn để lại một hiện tượng xã hội tồi tệ sau này, đó là: “Cá lớn nuốt cá bé!”
Một trong những cái làm căng thẳng nhất đối với một đứa trẻ là sức ép từ bạn bè “peer pressure”. Ai cũng có kinh nghiệm này khi còn là một trẻ em cắp sách đến trường, đặc biệt ở tuổi vị thành niên, và cả sau này khi đã bước chân vào cuộc sống với những giao tiếp xã hội.
Thánh Giuse, Cha Nuôi Đức Kitô. Ngài đã sinh sống và nuôi vợ con với đôi tay và sức lao động của chính mình bằng nghề thợ mộc. Chúa Giêsu lớn lên cũng theo nghề của dưỡng phụ ngài, và đã trở thành một anh thợ mộc: “Đây không phải là ông thợ mộc sao? Không phải là con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không ở đây với chúng ta sao? Và họ xúc phạm đến Ngài” (Marcô 6:3).
Dù chỉ là một người thợ mộc bình dân, âm thầm, và nghèo nàn, nhưng theo huyết thống, Thánh Giuse thuộc hoàng tộc David. Ở vào thời ngài, dòng dõi David tuy không còn lừng lẫy như xưa, Thánh Giuse vẫn cho thấy ngài là người có tâm hồn cao thượng và thánh thiện. Thánh Kinh kể lại sau khi kết hôn với Maria, do nhận ra Maria có thai, nhưng vì “là người công chính và không muốn công khai tố cáo người bạn mình” (Matthêu 1:19), nên Thánh Giuse đã định tâm lìa bỏ Maria một cách kín đáo. Hành động của ngài đã khiến Thiên Đàng phải can thiệp. Thiên thần Chúa đã được sai đến và cho ngài hay con trẻ đó là Con Thiên Chúa, và Con Thiên Chúa đây được hoài thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.
“Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.” Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” Đức Giê-su bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
“Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời” (Khải Huyền 1:17-18). *
Chúng ta vừa nghe những lời an ủi này trong Bài Đọc Thứ Hai trích từ sách Khải Huyền. Những lời mời gọi chúng ta hướng tầm nhìn vào Chúa Kitô, để cảm nghiệm sự hiện diện bảo đảm của Ngài. Đối với mỗi người, trong bất cứ điều kiện nào, dù cho là phức tạp và bi đát nhất, Đấng Phục Sinh đều lập lại: “Đừng sợ, Ta đã chết trên Thập Giá nhưng nay Ta sống đến muôn đời”, “Ta là đấng trước hết và sau hết, và là đấng hằng sống.”
Theo trình thuật của thánh sử Luca (Lc 24,13-35), hôm đó trên đường từ Giêrusalem về Emmaus có ba người lữ hành. Họ đi bên nhau, chia sẻ những suy tư của mình về một biến cố, theo họ, rất quan trọng và có ảnh hưởng đến không chỉ riêng họ mà còn cả toàn dân Israel nữa. Ba người gồm một người được ghi rõ tên, một người không ghi rõ tên, và một người sau cuối ngày danh tính mới được biết đến. Đây cũng là người, là nhân vật chính trong câu chuyện mà cả ba đã trao đổi suốt dọc đường.
Anh chị em thân mến,
Đây là thời khắc mà tôi đã từng mong đợi. Tôi đã đứng trước Khăn Liệm Thánh trong nhiều trường hợp khác nhau, nhưng lúc này, qua cuộc Hành Hương này và giây phút này tôi đang cảm nghiệm về nó bằng một cường độ đặc biệt: Có lẽ vì trong những năm vừa qua đã cho tôi cảm nhận nhiều hơn đối với thông điệp của Hình Ảnh phi thường này. Và trên tất cả, tôi có thể nói bởi vì giờ này, tôi ở đây như Đấng Kế Vị của Phêrô, và tôi mang trong tim tôi toàn thể Giáo Hội, đúng ra, toàn thể nhân loại.
Các nhà chú giải Thánh Kinh đã đếm được 365 lần câu “đừng sợ” (don’t be afraid) trong Kinh Thánh. Nếu một năm 365 ngày chia đều cho 365 lần nhắc nhở “đừng sợ”, thì ít nhất mỗi ngày một lần, Thánh Kinh nhắc bảo con người rằng “đừng sợ!” Vậy, con người sợ cái gì? Và tại sao Thiên Chúa lại phải trấn an con người như vậy? [1]
Thế gian này là một “vũng lệ sầu” như lời trong kinh Lạy Nữ Vương, vì thế cuộc lữ hành đi về vĩnh hằng của con người chính là một hành trình gặp phải rất nhiều sự sợ hãi. Trước hết, con người phải đối diện với những sợ hãi do ma quỷ là loài thần thiêng, nhưng luôn luôn ghen tỵ và tìm mọi cách để làm hại con người.
Tuần Thánh (Holy Week), tiếng Latin là Hebdomas Sancta hay Hebdomas Maior. Tuần lễ trọng đại này đối với người Kitô Giáo là tuần trước Phục Sinh. Theo Tây Phương, nó bắt đầu bằng tuần lễ sau cùng của Mùa Chay, bao gồm Chúa Nhật Lễ Lá, Thứ Tư, Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bẩy tuần Thánh.
Thế là Giêsu người thành Nagiarét đã “mồ yên mả đẹp”.
Vâng! Hỡi Giêsu. Xin hãy yên nghỉ và quên đi những vất vả sau ba năm truyền giảng Tin Mừng. Quên đi những roi đòn làm tan nát tấm thân. Quên đi mão gai. Quên đi những tiếng la ó đòi kết án. Quên đi bản án bất công. Quên đi thánh giá nặng trên vai. Quên đi những tiếng búa chát chúa làm xuyên thấu tay chân bằng những chiếc đinh dài và nhọn nhưng rất vô tình. Quên đi cơn hấp hối kinh hoàng tưởng chừng “Cha nỡ bỏ con.” (Mt 27:46) Quên đi đồi Golgotha loang máu. Và Giêsu ơi! Xin hãy ngủ yên.
Có khi nào chúng ta đã tự đặt mình vào số những người vây quanh Chúa Giêsu mỗi khi Ngài rao giảng không? Và thái độ của chúng ta lúc đó như thế nào: Hăm hở nghe lời Ngài, suy tôn và thần tượng Ngài về những lời giảng dạy khôn ngoan; hoặc ngược lại, cảm thấy chói tai, mỉa mai Ngài rồi bỏ đi?